This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Xét nghiệm nước bọt giúp chẩn đoán bệnh gan dễ dàng và ít tốn kém hơn

Các nhà nghiên cứu Y tế công cộng Bloomberg ở Johns Hopkins, Mỹ cho biết một xét nghiệm nước bọt mới được phát triển có thể đưa ra một sự thay thế ít tốn kém và dễ dàng hơn trong chẩn đoán bệnh gan và cuối cùng có thể giúp điều trị bệnh. Vi-rút viêm gan E (HEV) gây bệnh gan cho khoảng 20 triệu người trên thế giới mỗi năm và giết chết hơn 56.000 người.

Hiện tại, cách duy nhất để xét nghiệm bệnh viêm gan E trước đây và bây giờ là qua xét nghiệm máu hoặc phân.

Xét nghiệm nước bọt mới này rất đơn giản và chính xác và không đòi hỏi phải có nhân viên được đào tạo chuyên sâu để thu thập mẫu cũng như không cần bảo vệ mẫu khỏi nhiệt độ, và xử lý các kim tiêm vệ sinh, những yếu tố cần thiết trong xét nghiệm máu và ảnh hưởng đến chẩn đoán một cách kịp thời. Xét nghiệm nước bọt mới sử dụng một nền tảng khác trong đó các kháng nguyên được gắn liền với các hạt huỳnh quang giúp lưu thông dễ dàng hơn thông qua chất lỏng, có khả năng tăng cường kháng thể với bệnh nếu chúng xuất hiện trong nước bọt.

Nó cũng cho phép xét nghiệm một số mục tiêu kháng nguyên khác nhau trong cùng một mẫu nước bọt, do đó người dùng có thể kiểm tra nhiều lần các nhiễm trùng chỉ trong một mẫu.

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng xét nghiệm nước bọt cũng có độ nhạy và độ đặc hiệu cao gần tương đương với thực hiện xét nghiệm máu rộng rãi từ trước tới giờ để đánh giá nhiễm HEV

Với các nhiễm trùng trong quá khứ, độ nhạy và độ đặc hiệu trong xét nghiệm nước bọt lần lượt là 98,7% và 98,4% trong khi đối với nhiễm trùng gần đây, độ nhạy và độ đặc hiệu là 89,5% và 98,3%.

BS Thu Vân

(Theo Indianexpress)

Cắt bao quy đầu, không phải chuyện đơn giản

Câu chuyện về hàng chục trẻ mắc bệnh sau nong, cắt bao quy đầu tuy chưa có kết luận cuối cùng nhưng lại xới lên nỗi băn khoăn ở nhiều bậc phụ huynh về dị tật sinh dục bẩm sinh này. BS. Lê Sĩ Trung, chuyên khoa phẫu thuật tạo hình các dị dạng sinh dục tiết niệu trẻ em đã có cuộc trao đổi với phóng viên (PV) báo Sức khỏe&Đời sống về vấn đề này.BS. Lê Sĩ Trung.

BS. Lê Sĩ Trung.

Phóng viên (PV): Thưa bác sĩ, trong trường hợp nào cần nong, cắt bao quy đầu? Điều này có ảnh hưởng như thế nào tới bệnh nhân?

BS. Lê Sĩ Trung: Trước hết phải nói ngay rằng, tạo hóa sinh ra cái gì hẳn đều có lý do. Bao quy đầu bình thường là một bao da mỏng bọc trùm lên phía ngoài của quy đầu dương vật và có thể dễ dàng lộn ra để lộ toàn bộ quy đầu. Bao da này gồm có hai lớp: lớp ngoài liền với da của thân dương vật, lớp trong là niêm mạc có nhiều dây thần kinh cảm giác rất nhạy cảm với kích thích tình dục. Bao quy đầu có tác dụng bảo vệ, tránh các thương tổn cho quy đầu và giữ khả năng nhạy cảm của quy đầu dương vật. Do đó, nếu bình thường không ai cắt bao quy đầu, trừ khi vì những lý do tập tục hay tôn giáo, và đây lại là một câu chuyện khác. Như vậy, người ta chỉ nong, cắt bao quy đầu khi bị hẹp bao quy đầu. Khi bị hẹp bao quy đầu, da bao quy đầu không thể lộn ra được (hẹp hoàn toàn), hoặc lộn ra được một phần quy đầu dương vật (hẹp bán phần). Cha mẹ, người chăm sóc có thể thấy trẻ khi tiểu tiện, bao quy đầu bị phồng lên.

Nhưng cần lưu ý rằng, ở trẻ sơ sinh, bao quy đầu còn chưa lộn hết, khi lớn lên (từ 1-2 tuổi) bao quy đầu mới dần dần lộn ra hết. Đây là hiện tượng bình thường, không cần điều trị. Nếu không nắm rõ điều này, rất dễ gây tâm lý lo lắng hoặc chỉ định nhầm, lạm dụng cắt bao quy đầu.

Khi bao quy đầu bị hẹp, gây ứ đọng chất tiết của các tuyến ở quy đầu tạo nên bựa sinh dục tích tụ và ứ đọng nước tiểu, là điều kiện cho vi khuẩn phát triển, dễ gây viêm quy đầu. Về lâu dài, việc cắt bao quy đầu có tác dụng dự phòng ung thư dương vật. Cắt bao quy đầu còn tạo thuận lợi cho sự phát triển bình thường của dương vật: hẹp bao quy đầu gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển để đạt được kích thước bình thường của dương vật. Hẹp bao quy đầu cản trở toàn bộ khả năng nhạy cảm tạo nên khoái cảm tình dục của quy đầu và niêm mạc bao quy đầu. Hẹp bao quy đầu gây đau khi dương vật cương làm giảm chất lượng tình dục và có thể gây những biến chứng nặng nề khi hoạt động tình dục, nhất là trong trường hợp hẹp bao quy đầu bán phần như thắt nghẹt bao quy đầu, chảy máu do rách quy đầu... Vì vậy, cách giải quyết là phẫu thuật cắt bao quy đầu. Ngoài ra, điều này đương nhiên còn giúp cho tiểu tiện dễ dàng hơn.Cần đưa trẻ đi khám phát hiện sớm hẹp bao quy đầu.

Cần đưa trẻ đi khám phát hiện sớm hẹp bao quy đầu.

PV: Bác sĩ có nói về việc lạm dụng cắt bao quy đầu, ông có thể nói rõ nguyên nhân và hậu quả của sai lầm này không? Sự việc đang nóng gần đây, cùng thời điểm, cùng địa phương có vài chục trẻ nong, cắt bao quy đầu bị lây nhiễm bệnh da liễu có phải phản ánh khía cạnh này?

BS. Lê Sĩ Trung: Vụ việc đang được cơ quan chức năng xem xét. Do người thực hiện không ghi hồ sơ bệnh án nên không thể rõ có việc lạm dụng cắt bao quy đầu hay không. Nhưng trên thực tế, hẹp bao quy đầu rất dễ nhầm với dính bao quy đầu ở trẻ em. Dính bao quy đầu là thể bệnh rất hay gặp ở trẻ em. Thể này có chỉ định điều trị là bảo tồn không mổ. Trên thực tế, không ít trẻ bị cắt bao quy đầu một cách không cần thiết do nhầm lẫn giữa 2 thể bệnh này.

Trong dính bao quy đầu, bao quy đầu không hẹp nhưng bị dính chặt với quy đầu nên rất khó lộn ra được, thường vẫn thấy một phần quy đầu lộ ra tuy hơi nhỏ. Rất hay kèm theo 1 cục nhỏ bằng hạt lạc, màu trắng, nổi phồng lên dưới da quy đầu. Đây là bựa sinh dục ứ đọng sẽ được lấy đi dễ dàng khi nong bao quy đầu. Điều trị dính bao quy đầu luôn là bảo tồn không mổ. Nhưng ngược lại, nếu trong trường hợp hẹp bao quy đầu (phải cắt) mà lạm dụng thủ thuật nong, không những gây đau cho trẻ mà còn gây sẹo xơ cứng tại vòng quy đầu làm hẹp quy đầu nặng nề hơn.

Một trường hợp khác dễ có chỉ định sai khi cắt bao quy đầu là hẹp bao quy đầu kết hợp với lún dương vật. Lún dương vật là một dị tật bẩm sinh với biểu hiện dương vật nhỏ, ngắn do bị lún sâu vào vùng mu, thân dương vật bị tụt ra phía sau chỉ còn ống da bọc dương vật. Dị tật này luôn phối hợp với hẹp bao quy đầu. Nếu việc chẩn đoán phiến diện, chỉ nhận thấy biểu hiện hẹp bao quy đầu mà không hiểu biết về bệnh lún dương vật sẽ đưa đến quyết định sai lầm không thể sửa chữa được là đã lỡ cắt bỏ bao quy đầu. Bởi vì, để điều trị dị tật lún dương vật, bao quy đầu (ngay cả khi hẹp) là vật liệu vô giá để che phủ thân dương vật khi tiến hành phẫu thuật tạo hình dựng lại và kéo dài dương vật.

Điều trị hẹp bao quy đầu nên đến cơ sở y tế chuyên khoa.

Điều trị hẹp bao quy đầu nên đến cơ sở y tế chuyên khoa.

PV:Vậy BS có lời khuyên nào đối với các bậc phụ huynh khi nghi ngờ con trai mình bị hẹp bao quy đầu?

BS. Lê Sĩ Trung: Những dị tật sinh dục bẩm sinh nên được lưu tâm phát hiện sớm. Nhưng vì những lý do tôi đã nói ở trên, hẹp bao quy đầu không đơn giản là “cắt”. Và khi quyết định “cắt” cũng cần chọn cơ sở y tế chuyên khoa có uy tín để thực hiện. Điều quan trọng trong phẫu thuật điều trị hẹp bao quy đầu là bảo tồn tối đa khả năng cảm nhận khoái cảm tình dục và thẩm mỹ. Điều này phụ thuộc nhiều vào phẫu thuật viên.

PV: Xin cảm ơn bác sĩ!

Lê Minh Thúy (thực hiện)

Có nên cắt bao quy đầu cho bé trai?

Trên thế giới hiện nay vẫn còn nhiều bé trai vẫn phải cắt bao quy đầu như vậy. Nhưng theo ý kiến của BS. Giffford Jones ở Toronto, Canada, thì đã đến lúc phải chấm dứt ngay dạng phẫu thuật gây đau đớn này vì nó không mang lại lợi ích gì mà còn gây ra những rắc rối trong cuộc sống sau này.

Có một vấn đề chẳng bao giờ được cả những người chống đối hay bênh vực cho việc cắt bao quy đầu nói đến, đó là hiện nay, việc dùng thuốc chống lại chứng mất chức năng cương cứng đang gia tăng, ngay cả thanh niên cũng phải dùng các loại thuốc này.

Chính vì vậy, thật đáng tiếc nếu như các thanh niên này bị cha mẹ cho thực hiện cắt bao quy đầu khi còn bé, vì khi lớp da nhạy cảm đó bị cắt bỏ, việc sinh hoạt tình dục chắc chắn bị giảm chất lượng, đó là chưa tính đến việc không phải trường hợp nào phẫu thuật cắt bao quy đầu cũng đều diễn ra êm đẹp.

Nhiều tờ báo y học trên thế giới cũng đã đề cập đến các biến chứng do việc cắt bỏ bao quy đầu gây ra. Sai lầm của con người bắt đầu từ chiếc kìm mổ để cắt bỏ lớp da này. Trong nhiều trường hợp, bác sĩ đã cắt đi khá nhiều lớp da này nên dễ gây ra tổn thương không chỉ cho đầu dương vật, mà còn cho cả ống dẫn nước tiểu đi qua đầu dương vật nữa.

Hậu quả lớn nhất của tổn thương này là có khi sau đó, bác sĩ lại cắt tiếp một phần đầu dương vật. Thường thì loại phẫu thuật như thế sẽ khiến cho ống dẫn nước tiểu bị teo lại và việc đi tiểu không còn bình thường được nữa. Y học gọi biến chứng này là “urethral fistula”, tức là nước tiểu đã được thải bỏ không qua ống mở bình thường của tự nhiên.

Và như vậy, chỉ có một tiểu phẫu nhưng đã gây ra hậu quả lớn, và việc điều trị nó lại không dễ dàng gì. Đặc biệt là sau khi cắt bao quy đầu, nếu có biến chứng fistula, có khi phải nhiều tuần hay nhiều tháng sau, bệnh mới bắt đầu phát ra.

Một thực tế không thể chấp nhận được là các bé trai không hề được thử máu trước khi tiến hành cắt bao quy đầu, và việc gây tê cho chúng càng hoàn toàn không có nên chúng thường rất đau đớn.

Đ.NGỌC

(Theo Epoch Times)

Khói nhang độc như khói thuốc lá

Nhang được làm từ một hợp chất gồm mùn cưa và chất kết dính, mùn cưa có thể được lấy từ một loại gỗ bất kỳ cho nên rất khó bảo đảm chất lượng khói sinh ra khi đốt và việc có độc hay không thì không thể nào kiểm soát được.

Bên cạnh đó, để tạo mùi thơm, có thể sử dụng rất nhiều loại hương liệu như bột quế, trầm hương, tinh dầu hoặc sử dụng hương liệu tổng hợp và đây chính là nguồn chất độc vô cùng nguy hiểm, thông thường thì thành phần tạo mùi thơm trong khói nhang là những hợp chất thơm có tên khoa học là benzene. Cho nên sau khi đốt nhang hai phút trong phòng kín thì từ khói nhang chứa chất làm thơm benzene có thể làm tổn thương mắt, da, hệ hô hấp, hệ thần kinh trung ương, gan, thận, làm mất sự tự điều hòa cơ thể và trầm cảm.

Đây là lý do vì sao khi ở trong khu vực có nhiều khói nhang chúng ta bị ho, chảy nước mắt hoặc choáng váng, nhức đầu và khó thở nhưng khi ra khỏi nơi đó thì sẽ hết và thoải mái trở lại.

Gây nhiễm trùng đường hô hấp:

Theo một số nghiên cứu cho thấy, khói nhang có thể gây hại tới sức khỏe con người vì khi đốt nhang trong phòng sẽ tạo ra khói nên chúng gây ô nhiễm không khí và khí này có thể gây ra viêm phổi và làm tăng nguy cơ gây bệnh cho các cơ quan thuộc hệ hô hấp. Bên cạnh đó, đối với người nhạy cảm với thành phần của khói nhang sẽ bị ho sặc sụa và hắt hơi liên tục, thậm chí nghẹt thở.

Khói nhang độc như khói thuốc láảnh minh họa

Gây bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và hen suyễn:

Khi đốt nhang, trong lớp khói được sinh ra gây ô nhiễm không khí bởi trong đó có rất nhiều chất độc, gây hại cho hệ hô hấp. Nếu hít phải một lượng lớn khói nhang thì sẽ có nguy cơ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và suyễn vì khói nhang gây độc ngang với khói thuốc lá.

Gây dị ứng da:

Tiếp xúc trong một thời gian dài với khói nhang sẽ gây kích ứng mắt, đặc biệt là ở trẻ em và người lớn tuổi, với những người nhạy cảm sẽ bị ngứa khi tiếp xúc với khói nhang, những vùng da mỏng như xung quanh mí mắt, mũi và khuỷu tay là nơi dễ bị dị ứng cho nên cần phải cẩn thận, tránh tiếp xúc với khói nhang.

Gây nên bệnh lý về thần kinh:

Người tiếp xúc thường xuyên với khói nhang sẽ bị đau đầu, khó tập trung và hay quên. Đây là những biểu hiện về bệnh lý của hệ thần kinh mà người sử dụng nhang thường gặp phải, bởi vì việc thắp nhang trong nhà sẽ gây ô nhiễm không khí cho nên những người sống trong môi trường nhiều khói nhang thì các chất độc sẽ xuất hiện và gia tăng nồng độ trong máu, chính các chất này tác động lên tế bào não, gây ra bệnh lý về thần kinh.

Làm tăng nguy cơ ung thư đường hô hấp:

Theo nghiên cứu mới đây, nếu tiếp xúc lâu dài với khói nhang thì sẽ làm tăng nguy cơ ung thư đường hô hấp cho người sử dụng.

Gây nhiễm độc cho cơ thể:

Khi đốt nhang sẽ sinh ra khói có rất nhiều chất độc hại, trong đó có chì, sắt và magiê, các chất độc này buộc thận phải làm việc nhiều hơn để loại thải, dần dần dẫn tới các bệnh về thận và khói nhang còn góp phần làm tăng nồng độ các tạp chất trong máu.

Làm suy yếu hệ tim mạch:

Đốt nhang hàng ngày sẽ gây ra tác động tiêu cực đến sức khỏe mà cụ thể là hệ tim mạch. Theo các chuyên gia về tim mạch, nếu việc đốt nhang lâu dài thì sẽ làm tăng nguy cơ suy tim lên đến 12% và các bệnh về mạch vành là 10% và hít phải các hợp chất trong khói nhang cũng làm tăng nguy cơ viêm mạch máu và ảnh hưởng đến lưu lượng máu, dẫn đến các bệnh lý về tim.

BS. HỒ VĂN CƯNG

Thủ phạm khiến bạn đau đầu gối

Đau đầu gối là một bệnh thường gặp do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể gặp ở cả người trẻ và người cao tuổi. Cần có sự nhận biết cần thiết về bệnh để có hướng điều trị tốt nhất, tránh những biến chứng xảy ra, nhất là đối với những người để đau lâu ngày.

Nguồn cơn khiến đầu gối của bạn bị đau

Tình trạng bong gân: Do đầu gối bị bẻ hoặc gập nhẹ, một số mô xung quanh đầu gối bị co lại. Cơn đau bong gân thường giảm xuống trong khoảng vài ngày đến 1 tuần, vì thế, nếu như cơn đau kéo dài hơn một vài tuần hoặc kèm theo sưng tấy xung quanh đầu gối, cần đi khám bác sĩ ngay, bác sĩ có thể khuyên người bệnh bó bột để cố định trong khoảng vài tuần.

Khớp gối thoái hoá sẽ bị sưng, đau nhức.

Tổn thương lớp sụn bán nguyệt: Sụn bán nguyệt nằm ở lớp bên trong thường bị thương hơn các sụn nằm bên ngoài. Những chiếc sụn này có thể gãy nếu chúng bị va chạm. Sụn gãy là một nguyên nhân gây ra đau ở đầu gối, đặc biệt là với những người hoạt động thể chất. Mặc dù tổn thương sụn có thể khó nhận biết nếu nhìn bên ngoài nhưng chúng có thể gây ra tổn thương đáng kể đến các cấu trúc bên trong đầu gối. Nếu cơn đau ở đầu gối không giảm sau vài ngày thì nên phải được kiểm tra sụn.

Tổn thương dây chằng đầu gối: Dây chằng ở giữa phía trước thường bị thương trong các hoạt động thể thao nếu đột nhiên bị vật nặng va vào đầu gối hoặc khi nhảy xuống từ trên cao. Khi dây chằng bị tổn thương, một vài thứ trong đầu gối có thể bị gãy, vỡ. Đầu gối sưng lên nhanh chóng do máu tụ ở khớp. Nếu dây chằng nhỏ bị rạn, nó có thể tự lành lại như bị bong gân nhưng nếu bị đứt nhiều hơn một dây chằng một lúc thì phải có sự can thiệp ngoại khoa mới có thể phục hồi được.

Gãy xương và trật khớp: Xương bánh chè là xương ở đầu gối, nó dễ bị trật nếu có một cử động mạnh không được chuẩn bị trước, hay gặp ở người ít tuổi do hiếu động, ở người già thường là bị trẹo chân bất ngờ. Chụp Xquang đầu gối rất cần thiết để chẩn đoán vùng xương bị tổn thương do gãy. Trong hầu hết các trường hợp gãy xương đầu gối, việc cần thiết là ghép các mảnh gãy trở lại vị trí bình thường bằng đinh ốc và kim loại, đồng thời cần cố định trong vài tuần.

Viêm khớp: Có thể là cấp tính hoặc mạn tính, tình trạng này có thể gặp ở cả người trẻ và người già, thường thấy nhiều ở người cao tuổi. Khi viêm khớp sẽ bị sưng, đau nhức, nhất là khi thay đổi thời tiết, khó khăn cho sự vận động.

Lời khuyên của thầy thuốcTất cả những trường hợp có biểu hiện đau đầu gối dù là tổn thương vì lý do gì cũng cần được thăm khám cẩn thận. Nếu để tình trạng bệnh xảy ra lâu ngày sẽ dẫn đến hoại tử đầu gối hoặc khó điều trị. Trong sinh hoạt hàng ngày, cần tránh những vận động va đập quá mạnh ảnh hưởng đến đầu gối, nhưng cũng cần tập luyện thường xuyên để cơ thể không bị quá sức với những vận động bất ngờ. Đối với người viêm khớp gối, cần phải giảm cân nếu béo phì, thừa cân, biện pháp luyện tập có thể là bơi, tập các bài tập trên ghế… và không nên có những vận động ảnh hưởng mạnh đến khớp gối.

BS. Nguyễn Văn Đức

Cần nhiều nỗ lực hơn nữa để kết thúc đại dịch AIDS

Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tính đến cuối năm 2016 có hơn 2/3 tổng số người nhiễm HIV đã biết được tình trạng nhiễm của bản thân, khoảng 2/3 trong số người này đã tiếp cận được điều trị và cứ 5 người tham gia điều trị thì có 4 người đã đạt được tải lượng vi rút dưới ngưỡng ức chế. Việc mở rộng điều trị kháng HIV đã giúp giảm gần một phần ba số người tử vong do AIDS trong khu vực kể từ năm 2010, và trong thành công này Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể.

“Những bước tiến mạnh mẽ của Việt Nam trong việc mở rộng cung cấp các dịch vụ phòng chống HIV đã tạo ra những tác động rất rõ ràng trong việc khống chế dịch,” Bà Marie-Odile Emond, Giám đốc UNAIDS Việt Nam cho biết. “Đến cuối năm 2016 một nửa tổng số người nhiễm HIV ở Việt Nam đã được điều trị kháng HIV và ước tính số người tử vong do AIDS đã đạt mức thấp nhất kể từ năm 2014. Số nhiễm HIV mới cũng giảm dần trong những năm gần đây.”

Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu 90-90-90 vẫn còn nhiều việc phải làm. Việt Nam và toàn thế giới đã có những bước tiến tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu 90–90–90, nhưng công việc phía trước vẫn còn nhiều. Dịch AIDS vẫn chưa kết thúc.

Số nhiễm HIV mới đang giảm dần, nhưng giảm chưa đủ nhanh

Báo cáo mới của UNAIDS cho thấy trên toàn thế giới số nhiễm HIV mới đang giảm dần, nhưng nếu với tốc độ này thì không đủ để đạt được mục tiêu toàn cầu đến năm 2020 về giảm số nhiễm mới. Việt Nam cũng đang ở trong tình thế tương tự. Số nhiễm HIV mới ở Việt Nam đã giảm từ 28.000 ca mỗi năm vào đầu thập niên 2000 xuống còn khoảng 11.000 ca vào năm 2016. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ cần mở rộng nhanh chóng hơn nữa các can thiệp dự phòng đã chứng minh có hiệu quả cũng như tăng thêm đầu tư trong nước cho công tác dự phòng, bao gồm cho chương trình bơm kim tiêm và bao cao su, để có thể thực hiện thành công các mục tiêu quốc gia về dự phòng lây nhiễm HIV.

Áp dụng đồng thời nhiều cách tiếp cận để giảm tối đa tác động của HIV lên các nhóm có nguy cơ cao

Ở tất cả các nơi bên ngoài khu vực cận sa mạc Sahara của châu Phi, các nhóm chính có nguy cơ cao lây nhiễm HIV và bạn tình của họ chiếm tới 80% tổng số nhiễm HIV mới trong năm 2015. Ở Việt Nam, số liệu năm 2016 cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm người tiêm chích ma túy là 11%, trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới là 8,2% và trong nhóm phụ nữ bán dâm là 2,7%. Dịch HIV đang tăng trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới sinh sống tại các đô thị. Những phụ nữ có chồng hoặc bạn tình nam giới là người nhiễm HIV hoặc người có hành vi khiến họ có nguy cơ cao lây nhiễm HIV đang ngày càng chiếm tỷ lệ cao hơn trong tổng số người mới nhiễm HIV. Việt Nam cần thúc đẩy hơn nữa việc cung cấp các dịch vụ phòng chống HIV tại cộng đồng và được lồng ghép vào hệ thống y tế chung, cũng như mở rộng các cách tiếp cận thân thiện với người sử dụng dịch vụ và các sáng kiến đổi mới đã thí điểm thành công, để khuyến khích được nhiều người trong nhóm có nguy cơ cao tiếp cận và sử dụng dịch vụ.

Lấp đầy khoảng thiếu hụt trong chuỗi dịch vụ từ xét nghiệm tới điều trị

Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều để phân cấp điều trị HIV xuống các tuyến cơ sở, cải thiện việc kết nối người bệnh từ xét nghiệm sang điều trị và cho phép điều trị ngay không phụ thuộc vào CD4 cho mọi người nhiễm HIV, nhưng trong số 70% người nhiễm HIV ở Việt Nam đã biết tình trạng nhiễm của bản thân vẫn còn đến một phần ba chưa tham gia điều trị. Kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn còn là một trong những rào cản chính ngăn tiếp cận đến các dịch vụ phòng chống HIV và tiếp tục làm suy yếu ứng phó của quốc gia với dịch HIV.

Chia sẻ nhiều hơn trách nhiệm đầu tư cho phòng chống HIV và tối ưu hóa hiệu suất chương trình

Trên phạm vi toàn cầu, các nguồn lực dành cho phòng chống HIV vẫn chưa tăng đủ. Ở châu Á và Thái Bình Dương, các nguồn lực trong nước đầu tư cho HIV đã tăng gấp đôi trong thập kỷ vừa qua nhưng đóng góp của quốc tế cho khu vực này lại giảm khoảng 25% trong năm năm gần đây, đồng nghĩa với việc nguồn lực cho phòng chống AIDS trong khu vực vẫn còn bị thiếu hụt. Ở Việt Nam, số liệu mới nhất có được cho thấy các nguồn lực trong nước chiếm khoảng một phần ba tổng chi tiêu cho phòng chống AIDS trong năm 2015, và con số này đang tăng lên. Nâng cao hơn nữa hiệu suất của công tác phòng chống AIDS và tối ưu hóa các nguồn lực sẵn có là vô cùng cần thiết để Việt Nam thu được lợi ích lớn nhất từ đầu tư cho phòng chống AIDS đồng thời tạo được tác động mạnh mẽ hơn nữa trong việc khống chế dịch.

“Việt Nam đang tiếp tục cho thấy quyết tâm mạnh mẽ trong việc duy trì bền vững ứng phó với HIV, thể hiện qua việc gia tăng đầu tư trong nước cho HIV từ nguồn bảo hiểm y tế và từ đóng góp của các địa phương,” Bà Marie-Odile Emond cho biết, “Đầu tư đủ và đầu tư thông minh cho phòng chống AIDS, ngay từ bây giờ, và tối ưu hóa tất cả các nguồn lực về tài chính và con người, ở tất cả các cấp, sẽ giúp Việt Nam tránh không để dịch HIV tiến triển phức tạp hơn nữa, dẫn đến phải đầu tư nhiều hơn cho ứng phó với HIV trong tương lai, và có thể kết thúc được dịch AIDS vào năm 2030.

Mục tiêu 90-90-90 thể hiện cam kết của thế giới nhằm đến năm 2020 có 90% tổng số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm của bản thân, 90% số người đã biết tình trạng nhiễm được điều trị kháng HIV và 90% số người tham gia điều trị kháng HIV đạt được tải lượng vi rut dưới ngưỡng ức chế.

Hà Giang

(UNAIDS)

Chín mé

Đây là một bệnh ngoài da thường gặp, nếu không biết cách chữa trị, giữ vệ sinh thì bệnh sẽ diễn biến dai dẳng, dễ tái phát.

Coi chừng vết xước nhỏ đầu ngón tay

Tác nhân gây bệnh thường là tụ cầu khuẩn vàng, liên cầu gây mủ, đi vào cơ thể người bằng cách xâm nhập qua vết xước, vết châm, vết thương nhỏ. Đặc biệt, vi khuẩn có điều kiện sinh sôi, nảy nở dễ dàng ở những người bị ra mồ hôi nhiều khiến cho bụi bặm bám vào da. Thường thì khi bị một vết xước, người bệnh rất chủ quan cho rằng đó chỉ là “chuyện nhỏ”, vết thương “qua loa”, sớm muộn gì thì cũng sẽ tự lành, không cần phải điều trị gì. Do đó, hầu như chẳng người bệnh nào chữa chín mé khi đang ở giai đoạn nhẹ, chỉ đến khi bệnh quá nặng mới đi khám, việc điều trị lúc này đã trở nên khó khăn và rất tốn kém.

Đó là chưa kể có nhiều di chứng nguy hiểm có thể xảy ra nếu bệnh không được chữa trị kịp thời và đúng cách, làm mất đi chức năng của bàn tay. Với những người lao động cần đến sự khéo léo, tinh vi của đôi bàn tay thì đó là một thiệt thòi rất lớn.

Chín mé

Tiến triển của bệnh

Bệnh thường được xảy ra khoảng 1 - 3 ngày đầu, ở đầu ngón tay, ngón chân xuất hiện một chỗ sưng phồng, tấy đỏ, ngứa. Sau đó đau nhức, khó chịu, có khi cứng ngón, khó cử động. Khoảng ngày thứ 4 - 7, thời kỳ viêm lan tỏa, lan rộng ra chung quanh cả ngón, bệnh nhân có cảm giác nhức nhối, căng tức, đau giật theo nhịp mạch đập, có thể sốt nhẹ. Nếu không điều trị kịp thời và đúng cách, bệnh chín mé có thể gây những biến chứng như viêm xương, viêm bao hoạt dịch, viêm khớp hoặc nhiễm khuẩn huyết, có thể gây ra tử vong. Tuy nhiên, cần phân biệt chín mé với một số bệnh da liễu xảy ra ở đầu ngón như: tổ đỉa (thường gây ngứa, ít đau, sưng nhẹ); viêm cấp quanh móng (chân móng sưng nhức, có thể chảy mủ); bị chín mé do ung thư hắc tố (melanotic whitlow, xảy ra chủ yếu ở ngón tay cái hoặc ngón chân cái, đầu ngón bị sưng, thường có màu đen, có thể mất móng).

Tuy nhiên, riêng trường hợp chín mé do herpes có thời gian ủ bệnh khoảng 2 - 20 ngày. Các triệu chứng toàn thân như sốt và mệt mỏi có thể xuất hiện như là biểu hiện đầu tiên của bệnh, nhưng ít gặp. Các dấu hiệu hay gặp hơn là cảm giác đau, rát bỏng, châm chích ở đốt ngón tay có nhiễm virút herpes. Sau đó, đốt ngón tay trở nên đỏ, phù nề, xuất hiện các đám mụn nước có đường kính 1 - 3mm trên nền da đỏ, tồn tại trong 7 - 10 ngày. Các mụn nước có thể bị loét, vỡ ra, thường chứa dịch trong suốt, hoặc có màu đục hoặc có máu.

Sau đợt nhiễm trùng đầu tiên, virút herpes từ ngón tay xâm nhập vào đầu mút của các dây thần kinh cảm giác ở da, di chuyển vào các hạch thần kinh ngoại vi và tế bào Schwann, sống tiềm ẩn ở đó trong thời gian rất lâu. Khi gặp điều kiện thuận lợi như suy giảm miễn dịch, sang chấn tâm lý, tiếp xúc với tia xạ, tia cực tím, laser, virút tái hoạt động, di chuyển ra da, tạo nên hình ảnh lâm sàng của nhiễm herpes thứ phát. Thông thường, các triệu chứng lâm sàng của nhiễm herpes tiên phát rầm rộ nhất, còn nhiễm thứ phát thì nhẹ hơn với thời gian ngắn hơn.

Cần làm gì?

Khi mắc bệnh cần giữ sạch chỗ bị chín mé để tránh bị nhiễm trùng thêm. Có thể ngâm rửa bằng thuốc tím pha loãng, sau đó bôi mỡ kháng sinh. Nếu chín mé làm mủ thì cần rạch thoát mủ, dẫn lưu, kết hợp dùng kháng sinh. Khi vết thương sưng đau nhiều, đáp ứng kém với điều trị thì cần chụp X-quang để xác định tình trạng biến chứng của chín mé.

Bệnh chín mé xảy ra một phần là do thói quen không giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, vì vậy để phòng bệnh cần rửa tay, chân sạch sẽ hàng ngày, tránh ngâm tay, chân trong nước quá lâu, không đi chân đất, tránh để cát bụi dính vào các kẽ ngón chân, khi cắt móng cần lưu ý không cắt quá sát vào da hoặc lấy khóe sâu ở hai bên cạnh của ngón chân, ngón tay, không cắt móng tròn. Móng nên được cắt thẳng và giữ cho đầu móng luôn dài hơn da. Điều này ngăn chặn góc móng đâm vào da… Đề phòng chín mé do virút herpes với các nhân viên y tế: đi găng tay khi chăm sóc người bệnh, khi tiếp xúc với dịch tiết của người bệnh. Với trẻ em, tránh thói quen mút tay.

BS. NGUYỄN THỊ HUYỀN

7 cách ngăn chặn ung thư vú tái phát

Tập luyện

TS. Warner nói rằng tập thể dục đều đặn ít nhất 2,5 giờ mỗi tuần là "yếu tố quan trọng nhất trong lối sống" để giảm nguy cơ ung thư vú tái phát. Tuy nhiên, chỉ 13% số người sống sót sau điều trị ung thư vú ở Hoa Kỳ đáp ứng mục tiêu hàng tuần đó. Nguyên nhân do người bệnh thường bị mệt mỏi sau một trận đấu căng thẳng với quá trình điều trị bệnh. Nhưng vì tập thể dục làm giảm tình trạng viêm và mức độ kích thích tố có liên quan đến tái phát nên việc tập luyện rất cần thiết và được coi như người phòng vệ tốt nhất trước căn bệnh này.

Duy trì cân nặng

Giảm cân thường là một sự thay đổi lành mạnh nhưng không liên quan chặt chẽ đến giảm nguy cơ tái phát ung thư vú. Tuy nhiên lại có bằng chứng rõ ràng rằng tránh được tăng cân và chấp nhận một chế độ ăn uống lành mạnh trong và sau khi điều trị ung thư vú sẽ có nhiều lợi ích cho cơ thể. BS. Elisa Port, giám đốc phẫu thuật vú tại Trung tâm Vú Dubin của Bệnh viện Mount Sinai và là một nhà nghiên cứu thuộc Quỹ Nghiên cứu Ung thư Vú của Mỹ cũng đồng ý rằng, phụ nữ béo phì và thừa cân có nguy cơ tái phát bệnh cao hơn những người duy trì trọng lượng cơ thể khỏe mạnh.

Tránh uống quá nhiều

Một nghiên cứu năm 2016 trên Tạp chí Quốc tế về Ung thư cho thấy, những người sống sót sau liệu trình điều trị ung thư vú uống rượu nhiều hơn một lần mỗi ngày có nguy cơ tái phát cao hơn 28% so với nhóm đối chứng. Chính vì vậy, uống một cách có kiểm duyệt, có thể lên tới 3-4 ly mỗi tuần nhưng không nên uống rượu mỗi ngày.

Uống thuốc đều đặn mỗi ngày

Việc tuân thủ các thuốc được kê toa là việc quan trọng nhất để tránh nguy cơ tái phát cho phụ nữ mắc ung thư vú. Nhiều nghiên cứu, bao gồm một bài báo năm 2016 trên Tạp chí Y học New England đã cho thấy, các tác nhân chống estrogen và các chất ức chế aromatase có thể ngăn chặn ung thư vú trở lại. Tuy nhiên, do các tác dụng phụ và các yếu tố khác, rất nhiều phụ nữ ngừng dùng các loại thuốc này, hoặc không dùng theo đúng quy định.

Bổ sung vitamin C và D

Mặc dù các bằng chứng hỗ trợ bổ sung vitamin không nhiều nhưng nhận xét của Warner cho thấy, uống bổ sung vitamin C có thể làm giảm tỉ lệ tử vong do ung thư vú. Mức thấp của vitamin D cũng liên quan đến kết quả ung thư tồi tệ hơn, và do đó uống bổ sung vitamin D có thể có lợi cho các trường hợp mắc loại ung thư này.

Thay đổi cách ăn uống

Ngày càng có nhiều bằng chứng chứng tỏ việc nhịn ăn không liên tục hoặc kéo dài khoảng cách giữa các bữa ăn có thể mang lại những lợi ích sức khoẻ lâu dài. Một nghiên cứu vào năm 2016 đăng trên Tạp chí y khoa JAMA cho thấy, những bệnh nhân ung thư vú không ăn trong 13 giờ đồng hồ mỗi ngày sẽ giảm nguy cơ tái phát đáng kể so với những phụ nữ nhịn ăn. Để thực hiện điều này không khó, người bệnh có thể ăn bữa cuối cùng của ngày vào lúc 8 giờ tối hôm trước và ăn sáng vào sáng hôm sau lúc 9 giờ.

Uống trà xanh hàng ngày

Mặc dù vẫn chưa được khẳng định nhưng một nghiên cứu tại Nhật Bản đã phát hiện nguy cơ tái phái ung thư vú giảm 31% ở những phụ nữ uống 3 ly trà xanh trở lên mỗi ngày so với những người không uống. Nguyên nhân là do trong trà xanh có chứa lượng lớn chất chống oxy hóa giúp ngăn chặn quá trình sản xuất các enzyme có hại cho cơ thể, ngăn ngừa sự xâm lấn và phát triển của các khối ung thư.

Lê Thu Lương

(Theo Prevention)

Uống nghệ là bao tử hết đau, liệu có đúng không?

Tại sao uống nghệ nhiều nhưng dạ dày vẫn đau?

Chia sẻ về quá trình và sự nỗ lực, cố gắng trong chữa bệnh đau dạ dày của Anh Nguyễn Hoài Đ.( Bắc Giang), vợ - bà Lê Thúy H. khiến nhiều người thán phục. Chị H, cho biết, do công việc kinh doanh nên cả 2 vợ chồng chị ăn uống thất thường, gặp đâu ăn đó nên cả 2 đều bị đau dạ dày do viêm loét dạ dày đã lâu, lại sợ bị tác dụng phụ do các thuốc giảm tiết acid, kháng sinh gây ra như giòn xương, viêm gan, suy thận và biến chứng nặng nề nhất là ung thư dạ dày. Nên vài năm lại đây chị nghe mách dùng loại thảo dược gì là chị đều làm theo, chị nhờ họ hàng ở quê tìm kiếm. Cách đây 3 năm, chị nghe nói dùng nghệ và mật ong để viên uống. Chị về quê lây cả bao nghệ và mật ong thuê người làm để dùng dần. Cũng từ đấy vợ chồng chị kiên trì sử dụng bột nghệ và mật ong hàng ngày để tránh tái phát bệnh. Tuy nhiên, anh chị đã uống hàng chục cân bột nghệ, triệu chứng thì có đỡ, nhưng không thể khỏi hẳn được, thỉnh thoảng những cơn đau dạ dày cấp lại hành hạ khiến công việc bị lỡ kế hoạch và cả vợ chồng mất ăn mất ngủ. Chị H cho biết, mới đây 5 tháng chị nghe người bạn cùng trong kinh doanh mách dùng loại viên nghệ nang bào chế tinh nghệ Curcumin dưới dạng lỏng cô đặc nên chị dùng thử thực sự thấy hiệu quả.

Đau dạ dày uống nghệ, phải dùng đúng cách

Thực tế rất nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng đã cho thấy trong nghệ có curcumin – hoạt chất chính tạo nên màu vàng của nghệ có hiệu quả cao với bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng do có tác dụng ức chế vi khuẩn HP, làm giảm tiết dịch vị, tăng tiết chất nhầy, phục hồi nhanh các tổn thương và giúp bảo vệ niêm mạc dạ dày.

Với nhiều tác dụng như vậy nhưng do bột nghệ chỉ có 3-10% curcumin, nên với liều 2-3 thìa bột nghệ, không thể đạt liều khuyến cáo của các chuyên gia y tế 4-8g curcumin/ngày để đủ phát huy hiệu quả. Đấy chính là lý do tại sao nhiều bệnh nhân dạ dày uống tới hàng chục kg bột nghệ trong nhiều năm mà vẫn không cải thiện.

Cũng do sinh khả dụng rất thấp khi sử dụng đường uống nên Curcumin không được ứng dụng nhiều cho đến khi các nhà khoa học sản xuất thành công tinh nghệ nano giúp hấp thu nhanh vào máu và tế bào, giúp nâng được sinh khả dụng của curcumin lên tới trên 95%.

Vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo, để người bệnh tiện lợi hơn giúp hỗ trợ điều trị bệnh đau dạ dày mà không thể dùng hàm lượng quá nhiều trong ngày là giải pháp công nghệ Nano Micelles, bào chế tinh nghệ Curcumin dưới dạng lỏng cô đặc có thể giúp chấm dứt những cơn đau dạ dày nhanh chóng và hiệu quả.

Công nghệ Micelles cải thiện toàn diện các yếu tố khả năng hấp thụ, tăng sinh khả dụng gấp 185 lần tinh nghệ thông thường.

Được sản xuất và ứng dụng công nghệ Micelles 100% từ Đức, Nghệ Micell ADIVA là thế hệ mới nhất hiện nay được xem là giải pháp đột phá hiệu quả trong phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh mạn tính như: viêm loét dạ dày, hành tá tràng, viêm gan do bia rượu và phòng ngừa hình thành các tế bào ung thư cực kỳ hiệu quả.

Nghệ Micell ADIVA giúp người tiêu dùng có một giải pháp hiệu quả và tiện lợi hơn, cho người có nhu cầu muốn hỗ trợ điều trị bệnh đau dạ dày mà không thể dùng hàm lượng quá nhiều trong ngày. Nghệ Micell ADIVA sản xuất 100% tại Đức với công nghệ Nano - Micelles, bào chế tinh nghệ Curcumin dưới dạng lỏng cô đặc. Đặc biệt, Nghệ Micell ADIVA sử dụng tấm “áo giáp” vỏ nang Gelatin 100% chiết xuất từ thực vật tan sau 7 phút giúp tinh chất nghệ dễ dàng hấp thụ nhanh chóng vào cơ thể, vì vậy chỉ cần bổ sung 1 viên Nghệ Micell mỗi ngày cũng có thể giúp chấm dứt những cơn đau dạ dày nhanh chóng và hiệu quả.

Thanh Mai

Nghệ Micell ADIVA - Giải pháp chuyên biệt cho người đau dạ dày

Được sản xuất và ứng dụng công nghệ micelles 100% từ Đức, đột phát vỏ nang Gelatin chiết xuất từ thực vật, sinh khả dụng gấp 185 lần. Bổ sung mỗi ngày 1 viên Nghệ Micell ADIVA, giải pháp bảo vệ hiệu quả sức khỏe dạ dày, giúp giảm tổn thương niêm mạc dạ dày, chấm dứt những cơn đau dạ dày nhanh chóng và hiệu quả.

Truy cập website:ADIVA.COM.VN hoặc liên hệ: 1900 555 552

Sản phẩm có bán tại nhà thuốc, siêu thị trên toàn quốc.

Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh.

Thực phẩm nên ăn hàng ngày để phòng ngừa đau tim

Nghệ

Nghệ chứa curcumin có tác dụng bảo vệ tim. Chiết xuất từ nghệ được biết là giúp giảm cholesterol LDL và ngăn ngừa tích tụ mảng bám ở động mạch.

Tỏi

Tỏi được chứng minh là giúp phòng bệnh tim, làm chậm tình trạng xơ vữa động mạch và giảm huyết áp. Tỏi cũng có tác dụng tốt trong phòng ngừa tích tụ mảng bám động mạch và là thực phẩm hàng đầu để ngăn ngừa đau tim.

Gừng

Gừng có đặc tính chống ôxy hóa, chống viêm và chứa các hợp chất giúp bảo vệ tim. Chiết xuất từ gừng giúp ngăn ngừa tắc nghẽn mạch máu và phòng ngừa đau tim.

Ớt

Ớt chứa capsaicin giúp giảm nồng độ cholesterol LDL một cách tự nhiên và giảm nguy cơ đau tim, đột quỵ, cải thiện tuần hoàn máu.

Chanh

Chanh có tác dụng giảm nồng độ cholesterol, ngăn ngừa tổn thương do ôxy hóa và bảo vệ động mạch. Chanh còn giàu vitamin C giúp giảm viêm và tăng cường hệ miễn dịch.

Quế

Quế giúp giảm các yếu tố nguy cơ liên quan đến xơ vữa động mạch và bệnh tim. Dùng 6g quế mỗi ngày có thể giúp giảm nồng độ cholesterol LDL và triglyceride.

Hạt lanh

Hạt lanh chứa nhiều chất xơ giúp ngăn ngừa tắc nghẽn động mạch. Ngoài ra, loại hạt này còn chứa acid béo omega-3 giúp giảm huyết áp và chống viêm. Đây là một trong những thực phẩm hàng đầu để phòng ngừa đau tim.

Bắp cải lên men

Bắp cải lên men chứa các hợp chất có tác dụng ngăn ngừa xơ vữa động mạch chủ, làm sạch động mạch và phòng ngừa đau tim.

Nước ép lựu

Nước ép lựu chứa acid punicic giúp ngăn ngừa tắc nghẽn động mạch tự nhiên và chống xơ vữa động mạch. Ngoài ra, lựu còn chứa các dưỡng chất tốt cho tim như selen và magiê.

BS P.Liên

(Theo Boldsky)

Công cụ chỉnh sửa gene hy vọng mới trong điều trị

Công cụ chỉnh sửa gene gọi là CRISPR - được lấy từ một protein của vi khuẩn - cho phép các nhà khoa học cắt và dán các phần ADN (phạm vi trong phòng thí nghiệm) mở ra một hướng mới hy vọng có thể chữa trị các bệnh nguy hiểm như ung thư, HIV, chứng loạn dưỡng cơ, bệnh Huntington hay mù lòa...

Ðiều trị ung thư

Tháng 10/2016, một bệnh nhân ung thư phổi ở Trung Quốc đã trở thành người đầu tiên trong số 10 người trên thế giới được thử nghiệm tiêm các tế bào đã được sửa đổi bằng CRISPR. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật CRISPR để “tắt” hoạt động của gene, thứ đang ngăn cản cơ thể bệnh nhân chống lại căn bệnh ung thư của mình. Trong khi đó, các nhà khoa học Mỹ cũng đang đề xuất một nghiên cứu tương tự sẽ được thực hiện tại Đại học Pennsylvania để tiến hành thử nghiệm lâm sàng trên 18 bệnh nhân ung thư u hắc tố - ung thư da - giai đoạn cuối, sarcoma - một loại ung thư mô miền và đa u tủy - ung thư tủy xương. Đối với thử nghiệm lâm sàng này, các nhà nghiên cứu sẽ sử dụng CRISPR để thay đổi 3 trong các tế bào miễn dịch của bệnh nhân với hy vọng các tế bào này sẽ tiêu diệt các tế bào ung thư trong cơ thể.

Tiêu diệt HIV

Tháng 5/2017, các nhà khoa học tại Trường Y Lewis Katz, Đại học Temple và Đại học Pittsburgh ở Hoa Kỳ đã sử dụng công nghệ chỉnh sửa gene CRISPR để phát hiện virut từ các tế bào mà nó lây nhiễm và ngăn không cho nó nhân bản. Tác giả chính, TS. Wenhui Hu cho biết, có thể xóa toàn bộ gene virut HIV-1 khỏi các mô trong cơ thể. Đây là lần đầu tiên bệnh AIDS được chữa khỏi hoàn toàn trên động vật nhờ công nghệ chỉnh sửa gene Crispr. Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Molecular Therapy.

Chữa trị bệnh Huntington

Theo Tổ chức Huntington’s Disease Society of America, có khoảng 30.000 người ở Mỹ mắc căn bệnh Huntington - một chứng rối loạn di truyền gây tử vong. Tháng 6/2017, các nhà khoa học tại Đại học Emory, Atlanta và Viện Khoa học Trung Quốc đã công bố họ có thể đảo ngược căn bệnh Huntington trên chuột thí nghiệm để tạo ra gene Huntingtin đột biến. Sau khi tạo ra gene đột biến này, số lượng các mảnh độc hại giảm xuống trong não bộ chuột, các nơron thần kinh bắt đầu lành. Những con chuột lấy lại được mức độ kiểm soát, cân bằng. Mặc dù hiệu suất khi làm một số công việc không được tốt như chuột khỏe mạnh nhưng kết quả cho thấy CRISPR có khả năng chữa trị bệnh Huntington.

Chống lại bệnh teo cơ Duchenne

Chứng loạn dưỡng cơ Duchenne là một tình trạng suy nhược phát triển do một đột biến trong một gene duy nhất được gọi là gene dystrophin, một trong những gene dài nhất trong cơ thể. Một nhóm các nhà khoa học tại Đại học Texas do GS. Eric Olson dẫn đầu đã dùng CRISPR để chống lại chứng loạn dưỡng cơ Duchenne. Kết quả nghiên cứu được công bố vào tháng 4/2017 trong Tạp chí Science Advances. Các nhà khoa học sử dụng một biến thể của công cụ chỉnh sửa gene CRISPR được gọi là CRISPR-Cpfl để điều chỉnh đột biến gây ra chứng loạn dưỡng cơ Dunchenne.

Ngăn ngừa chứng mù lòa

Theo Viện Y tế Quốc gia, một trong những nguyên nhân phổ biến của chứng mù lòa là tình trạng bệnh hoại vị bẩm sinh của Leber, ảnh hưởng đến 2-3/100.000 trẻ sơ sinh. Công ty Công nghệ sinh học Editas, Massachusetts đang nghiên cứu phương pháp trị liệu dựa trên CRISPR để đảo ngược bệnh hoại vị bẩm sinh Leber.

Giảm đau mạn tính

Đau mạn tính không phải bệnh di truyền nhưng các nhà khoa học đang nghiên cứu công nghệ chỉnh sửa gene CRISPR để kiềm chế đau lưng, khớp bằng cách thay đổi gene để giảm viêm. Vào tháng 3/2017, GS. Robby Bowles, Đại học Utah đã dẫn lời báo cáo rằng, họ sử dụng CRISPR để ngăn ngừa một số tế bào sản xuất các phân tử phá vỡ các mô. Kỹ thuật này có thể được sử dụng để trì hoãn thoái hóa mô sau khi phẫu thuật hồi phục, điều này giúp giảm nhu cầu phẫu thuật bổ sung để sửa chữa tổn thương mô.

Ngăn ngừa sốt rét

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có khoảng 212 triệu ca sốt rét năm 2016 và khoảng 429.000 ca tử vong do căn bệnh này. Các nhà nghiên cứu tại Imperial College Lodon đã biến đổi gene đối với muỗi đực để tạo ra nhiều con đực hơn và biến đổi gene ở muỗi cái khiến chúng giảm khả năng sinh sản. Vào tháng 12 vừa qua, các nhà khoa học công bố trên tạp chí Nature rằng họ đã xác định được 3 gene để giảm khả năng sinh sản của muỗi cái.

Chỉnh sửa phôi thai người

Mới đây, các nhà khoa học Trung Quốc đã công bố kết quả nghiên cứu biến đổi gene đơn bội trên phôi người. Họ tìm cách xóa bỏ các đột biến gene gây mầm bệnh thiếu máu bẩm sinh Thalassemia bằng kỹ thuật CRISPR - Cas9. Căn bệnh thiếu máu bẩm sinh này gây nguy hiểm đến tính mạng do đột biến gene tác động đến việc tạo huyết cầu tố, loại protein chủ đạo trong việc vận chuyển ôxy, trong đó có hồng cầu. Do đó, trong huyết cầu tố bị thiếu chuỗi amenieamin, loại chuỗi beta. Sự khiếm khuyết này dẫn đến việc hủy hoại các tế bào hồng cầu cũng như thiếu hụt các tế bào máu. Tuy nhiên, thí nghiệm này đã vấp phải sự phản đối của giới di truyền học cũng như các nhà đạo đức học. Bởi trong số 86 phôi người ban đầu, sau khi qua phân tích, xử lý kết quả chỉ có 7 phôi sống sót chứa các tế bào đã chỉnh sửa gene. Vì tế bào người mang cấu trúc khảm, tức là chúng bao gồm một số tế bào mà ADN đã được chỉnh sửa và số khác vẫn luôn mang gene khuyết tật. Theo các nhà khoa học trên thế giới, những rủi ro việc sửa đổi gene thực hiện không chính xác có thể dẫn đến việc tạo ra những cá thể không đúng với mục đích ban đầu.

Minh Huệ

((Theo LS, 6/2017))

Dấu hiệu nhận biết và cách điều trị bệnh ung thư phổi

Nguyên nhân gây ung thư phổi

Trong lịch sử, y văn thế giới đã ghi nhận bệnh ung thư phổi rất ít khi xảy ra cho đến khi thuốc lá xuất hiện. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư phổi. Cứ 10 người ung thư phổi thì có tới 9 trường hợp liên quan đến thuốc lá, do hút thuốc chủ động hoặc bị động (hít phải khói thuốc lá).

Ngoài ra còn một số nguyên nhân có thể gây ung thư phổi là do ô nhiễm môi trường, hóa chất, hoặc do hít phải khí radon. Khí radon là loại khí sinh ra từ sự phân rã phóng xạ urani. Loại khí này có ở hầu khắp mọi nơi trong lớp vỏ trái đất, nó thoát ra ngoài qua các vết rạn và lỗ trống rất nhỏ trên mặt đất và khuyếch tán vào không khí. Khí radon không thể nhìn thấy bằng mắt thường nhưng có thể xác định được bằng máy đo chuyên dụng.

Phổi hoạt động như thế nào

Phổi ở người bao gồm nhiều sợi lông mao nhỏ, những sợi lông này bảo vệ phổi quét sạch các độc tố, vi khuẩn từ bên ngoài vào đường hô hấp. Khi hút thuốc, khói thuốc lá làm các lông mao bị vô hiệu hóa chức năng của mình, các hóa chất trong thuốc lá xâm nhập vào phổi và gây bệnh.

Các triệu chứng của ung thư phổi

Những dấu hiệu đầu tiên của bệnh ung thư phổi bắt đầu lặng lẽ, thường là không có triệu chứng hoặc dấu hiệu cảnh báo trong giai đoạn đầu. Khi bệnh trở nên nặng hơn, các triệu chứng có thể xuất hiện bao gồm:

- Ho dai dẳng.

- Đau ngực, đặc biệt là khi hít thở sâu.

- Thở khò khè hoặc khó thở.

- Ho có đờm hoặc máu.

- Mệt mỏi.

Sàng lọc ung thư phổi

Ung thư phổi có thể được phát hiện sớm bằng chụp CT. Ở Mỹ, có một số đối tượng được khuyên đi sàng lọc ung thư phổi như những người hút thuốc hay có người thân nghiện thuốc, sống trong môi trường ô nhiễm, những người từ 55 đến 80 tuổi được khuyến cáo đi sàng lọc ung thư phổi. Nếu bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá nên định kỳ đi kiểm tra sức khỏe phổi. Ở những người trẻ nếu dừng hút thuốc trong vòng 15 năm có thể ngừng khám sàng lọc ung thư phổi.

Chẩn đoán ung thư phổi

Trong hầu hết các trường hợp, khi bác sĩ nghi ngờ bệnh nhân mắc ung thư phổi với các triệu chứng điển hình như ho mãn tính hoặc thở khò khè, lúc đó, bác sĩ sẽ cho người bệnh đi chụp X-quang hoặc các xét nghiệm hình ảnh khác. Bệnh nhân cũng có thể được yêu cầu xét nghiệm đờm. Nếu một trong các xét nghiệm cho thấy xuất hiện dấu hiệu của ung thư, bước tiếp theo bác sĩ sẽ tiến hành sinh thiết phổi.

Các loại ung thư phổi

Có hai loại chính của ung thư phổi là ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ. Ung thư phổi tế bào nhỏ là loại ung thư phát triển nhanh, nó có thể lây lan nhanh đến các bộ phận khác của cơ thể. Loại ung thư này thường xuất hiện ở người sử dụng thuốc lá và hiếm thấy ở người không hút thuốc. Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ phát triển chậm hơn và phổ biến hơn, đây là loại ung thư ít xâm lấn hơn loại trên. Trong các bệnh ung thư phổi có đến 85% những người ung thư phổi thuộc loại ung thư không tế bào nhỏ. Loại ung thư này nếu phát hiện sớm, phẫu thuật, xạ trị hay hóa trị có thể chữa khỏi căn bệnh này.

Các giai đoạn ung thư phổi

Mỗi loại ung thư phổi có cách xâm lấn khác nhau trong cơ thể. Như ung thư phổi tế bào nhỏ được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn giới hạn có nghĩa là ung thư được giới hạn trong một phổi và các hạch bạch huyết có thể ở gần vị trí khối u. Giai đoạn ung thư lan rộng có nghĩa là ung thư đã lan rộng khắp phổi hoặc ra các bộ phận khác. Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ được chia thành từ 1 đến 4 giai đoạn, tùy thuộc vào việc khối u lan rộng đến đâu.

Tuổi thọ của bệnh nhân ung thư phổi đang ngày càng tăng lên

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như công nghệ y dược học, thời gian sống của bệnh nhân ung thư phổi đang được kéo dài hơn so với trước. Thống kê mới nhất của Viện Ung thư Quốc gia của Mỹ cho thấy từ năm 2004 đến năm 2010, những người được chẩn đoán ung thư phổi sống sau 5 năm tăng từ 4% lên 54%, tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh.

Các cách điều trị ung thư phổi

Nếu bệnh nhân mắc ung thư phổi không phải tế bào nhỏ được phát hiện trước khi nó lan sang các bộ phận khác của cơ thể hoặc mới chỉ xuất hiện ở một bên phổi, phẫu thuật là biện pháp tốt nhất. Các bác sĩ phẫu thuật có thể loại bỏ phần có khối u. Một số bệnh nhân được xạ trị hoặc hóa trị sau phẫu thuật để diệt các tế bào ung thư còn lại. Đối với bệnh ung thư phổi tế bào nhỏ phẫu thuật dường như không có giá trị vì tại thời điểm chẩn đoán, ung thư có thể đã lan sang các cơ quan khác của cơ thể.

Khi ung thư phổi di căn

Khi ung thư phổi đã di căn các bác sĩ vẫn có thể chữa trị để giúp bệnh nhân kéo dài cuộc sống và có chất lượng cuộc sống tốt hơn. Bức xạ hoặc hóa trị liệu có thể thu nhỏ khối u và điều trị các triệu chứng, như đau xương hoặc khó thở. Hóa trị biện pháp duy nhất và thường xuyên được áp dụng ở các bệnh nhân bị bệnh ung thư phổi tế bào nhỏ.

Điều trị bằng phương pháp nhắm mục tiêu

Phương pháp điều trị nhắm mục tiêu là một phương thức điều trị mới của ung thư phổi, nó có thể được sử dụng cùng với hóa trị liệu hoặc khi các phương pháp điều trị khác không hiệu quả. Phương pháp nhắm mục tiêu là nhằm chặn các mạch máu tới nuôi dưỡng tế bào ung thư ở khối u. Nó có thể giúp bệnh nhân ung thư phổi sống lâu hơn. Phương pháp điều trị nhắm mục tiêu có thể làm gián đoạn các tín hiệu chịu trách nhiệm nhân lên trong tế bào ung thư trong hình ảnh ở trên.

Hải Yến

(Theo WebMD)